Lưu Độ Châu từng cảm thán, người ngày nay, chỉ biết “tâm chủ huyết mạch”, “ các mạch đều thuộc tâm”, trên lâm sàng vừa thấy bệnh tim mạch đã cho thang hoạt huyết lượng lớn, muốn thông ứ huyết mạch của tâm, mà không biết là thái dương trong dương, đặc điểm sinh lý của nó, lấy dương khí là trước tiên, mà không lấy huyết mạch làm đầu. Tâm chủ huyết mạch, chủ thần chí, hoàn thành phải được xây dựng dưới sự giám sát của tâm dương, tâm dương vượng thịnh thì mạch đạp có lực, mới có thể bảo đảm thực hiện thuận lợi các tác dụng của nó. Dương khí một khi hư, thì âm u bao phủ, quân chủ không hoàn thành chức năng, như triều chính bị gian thần thao túng, đất nước liệu có bình yên? Pháp trị bệnh, giống như phép trị quốc, cần bỏ đi tiểu nhân, nuôi dưỡng chính khí, mới có thể quốc thái dân an. Trị quốc quân chủ tất minh, trị bệnh dương khí tất phải thông, dương khí là chức năng của tâm dương, chức năng của tạng tâm bình thường, huyết ứ sản sinh thì khi hành huyết khắc hành. Căn cứ quan sát trên lâm sàng cho thấy nhiều bệnh nhân mắc bệnh tim mạch do dương khí hư tổn, thuỷ khí thượng xung dẫn đến. Bệnh tim do thuỷ khí thượng xung dẫn đến, Lưu Độ Châu nói về bệnh “Thuỷ tâm bệnh” luôn do tâm, tỳ, thận dương, thận bất hoá khí mà nội đình, thành đàm thành ẩm, mắc thượng lăng vô chế. Tâm dương hư tổn, quân chủ thất vị, toạ chấn vô quyền, thuỷ khi nhân đó thượng xung, tất thấy đau ngực, hồi hộp, tức ngực khó thở. Trên lâm sàng nhận biết chứng này thấy, tập trung thấy sự biến đổi của sắc, lưỡi, mạch, chứng. Sắc mặt đa phần thấy tím đen, cái này gọi là “thuỷ sắc” hoặc dưới da xuất hiện bán tím giống như “sắc tố chìm”, gọi là thuỷ ban. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trơn thành giọt, mạch hoặc huyền hoặc trầm hoặc cùng thấy trầm huyền, khi bệnh nặng mạch kết đại hoặc trầm phục không lực.
Bệnh tim mạch đã là nguyên nhân dương hư thuỷ khí thượng xung, trị liệu đương nhiên lấy pháp ôn dương lợi thuỷ giáng xung. GS Lưu Độ Châu căn cứ luận thuật điều 67 trong Thương Hàn Luận cho rằng: “tâm hạ nghịch mãn, khí thượng xung hung, khởi bệnh thấy chóng mặt, mạch trầm khẩn” là triệu chứng điển hình của chứng thuỷ khí thượng xung, biểu hiện lâm sàng “thuỷ tâm bệnh” hoàn toàn phù hợp, vì vậy chọn bài Linh Quế Truật Cam Thang là hoàn toàn phù hợp. Qua hơn 10 năm nghiên cứu lâm sàng, hiệu quả rõ rệt, nó thể hiện đầy đủ tầm nhìn sâu sắc và kinh nghiệm phong phú của Giáo sư Lưu Độ Châu đối với cổ phương. Lưu lão cho rằng: “Phục linh trong phương có 4 tác dụng: một là, cam đạm lợi tiểu tiện để điều trị đàm ẩm khái nghịch, hai là dưỡng tâm an thần, ba là trợ phế để trị tiết, bốn là bổ tỳ bồi thổ, là chủ được của phương thuốc. Quế chi có 3 tác dụng: một là ôn phục tâm dương, hai là hạ khí giáng xung, ba là thông dương tiêu âm, cũng là chủ dược của bài thuốc. Phục linh và Quế chi phối với nhau, thì lấy tác dụng ôn dương để chế thuỷ âm, lợi thuỷ để phục tâm dương”. Diệp Thiên Sỹ đã nói: “Thông dương không ở trong ôn, mà ở trong lợi tiểu tiện”. Bạch truật trợ Phục linh kiện tỳ lợi thuỷ, Cam thảo trợ Quế chi ôn bổ tâm dương. Các vị thuốc phối ngẫu với nhau có tác dụng ôn dương, lợi thuỷ giáng xung mà trị bệnh “thuỷ tâm bệnh”, hiệu quả bất ngờ, đây là phát kiến độc đáo của Lưu lão, có thể nói là có một không hai.
Trị bệnh tim mà dùng phép lợi thuỷ, là điểm tương thông lý luận đông tây y, khi mà bệnh tim không giải thích thấu đáo vừa thấy là đã dùng thang lớn hoạt huyết hoá ứ, thông được mạch của nó, huyết quản đã hẹp cứng, mang thuốc phá đá liệu có thông được không? Pháp ôn dương cũng hồi phục chức năng tạng tâm, cải thiện triệu chứng lâm sàng, giảm đau khổ cho bệnh nhân, nâng cao chất lượng sống cho người bệnh, hai pháp phối hợp, bỏ dùng thuốc hoạt huyết, hiệu quả lâm sàng của nó vượt qua tác dụng hoạt huyết hoá ứ hàng chục lần.
Gs Lưu ứng dụng bài Linh Quế Truật Cam Thang tâm đắc hiệu quả, chỉ cần bệnh lý phù hợp với cơ chế bệnh thuỷ khí thượng xung, bất luận là bệnh gì, đều có thể sử dụng, mà dùng nó điều trị “thuỷ tâm bệnh” là cụ thể và đặc sắc nhất. Khi lâm chứng, căn cứ vào biểu hiện khác nhau, lại có thể gia giảm hàng loạt phương khác để phát huy hiệu quả. Sau đây sẽ giới thiệu một số cách biến hoá phương của Gs Lưu.
1. Linh Quế Tam Sâm Thang: phương này dùng bài Linh Quế Truật Cam Thang gia Nhân sâm, Sa sâm, Đan sâm mà thành. Là bài thuốc trên lâm sàng Gs Lưu hay dùng nhất. Bài Linh Quế Truật Cam Thang ôn thông tâm dương, lợi thuỷ giáng xung, gia Nhân sâm đại bổ tâm khí, Sa sâm ích khi dưỡng âm, Đan sâm hoạt huyết dưỡng huyết, tăng cường tác dụng ích khi dưỡng âm hoạt huyết, thích hợp dùng bệnh “thuỷ tâm bệnh” khí hư nặng cũng có có công hiệu dưỡng âm hoạt huyết.
2. Linh Quế Hạnh Cam Thang: Phương này lấy bài Linh Quế Truật Cam Thang gia Hạnh nhân mà thành. Dùng trị bệnh “thuỷ tâm bệnh” thuỷ khí thượng xung, bức khiến phế khi bất lợi, có khả năng thông điều thuỷ đạo mà thấy tiểu tiện bất lợi, mặt phù sũng, ho. Thuỷ khí thượng xung, bỏ ủng tắc của Bạch truật, gia Hạnh nhân để khi phế khí, lý thuỷ thượng nguồn. Hạnh nhân là 1 loại thuốc, diệu dược tuyên phế khử thuỷ. Ngô Cúc Thông trong Ôn Bệnh Điều Biện ưa dùng Hạnh nhân tuyên phế khử thấp, có thể là phụ chứng.
3. Linh Quế Tây Hồng Thang: phương này được tạo ra từ Phục linh, Quế chi, Tây thảo, Hồng hoa, điều trị người chứng “thuỷ tâm bệnh” có ứ huyết nặng, lâm sàng biểu hiện đau tức, nhói trong ngực. Trong phương lấy Linh quế để thông dương khử thuỷ, dùng Tây thảo, Hồng hoa hoạt huyết, thông lạc, thuỷ khử dương thông thì huyết mạch sướng thông, các chứng tự khỏi.
4. Linh Quế Sâm Phụ Thang: Tức là bài Linh Quế Truật Cam Thang hợp Sâm Phụ Thang. Phương này trị “thuỷ tâm bệnh” mà dương khí hư khá nặng, bệnh nhân sợ lạnh ra mồ hôi, chi lạnh, thậm chí mùa hè mà cũng mặc áo rét, gặp lạnh thì đau tim, mạch vi tế muốn tuyệt. Lấy Linh Quế Truật Cam Thang khử thuỷ thông dương, gia Phụ tử ôn bổ dương khí toàn thân, Nhân sâm đại bổ nguyên khí. Nghiên cứu dược lý cho thấy 2 loại thuốc có tác dụng cường tim tương đối mạnh, bệnh nhân nặng trên lâm sàng cần dùng Hồng sâm để chuyển nghịch thành an, sau khi bệnh tình bình ổn có thể dùng Đẳng sâm củng cố hiệu quả.
5. Linh Quế Hạnh Dĩ Thang: Cấu tạo phương gồm: Phục linh, Quế chi, Ý dĩ, Hạnh nhân, điều trị “ thuỷ tâm bệnh” hiệp chứng thấp trọc. Lâm sàng biểu hiện là tâm quí khí đoản, ho nhiều đàm, đầu nặng như đội, ngực đầy như nghẹt, đau mỏi toàn thân, không muốn ăn, tiểu tiện bất lợi, mạch hoãn hoạt, chất lưỡi trắng dầy, bẩn. Dùng Linh quế thông dương lợi thuỷ giáng xung, ý dĩ khử thấp giáng trọc, lợi thuỷ thấp đồng trị, các chứng đều được giải.
Các phương trên, khi ứng dụng trên lâm sàng, nếu bệnh nhân huyết áp tương đối cao có thể gia thêm Hoài Ngưu tất dẫn huyết hạ hành, có tác dụng hạ áp rất tốt.
Các bài thuốc trên là ứng dụng bài Linh Quế Truật Cam Thang độc đáo trên lâm sàng của Gs Lưu Độ Châu. Chỉ cần nắm được cơ chế của chứng “thuỷ khí thượng xung”, ứng dụng phương này đều thu được hiệu quả. Do giới hạn của bài viết không thể đưa ra các ca bệnh điển hình, như vẫn có thể hiểu được y lý thì có thể lấy một thành 3 linh hoạt ứng dụng.
Dịch: Bs Tôn Mạnh Cường