Người xưa vẫn thường có câu rằng: “thập nhân cửu trĩ”, tức là cứ 10 người thì có tới 9 người bị trĩ. Qua câu nói này có thể thấy được rằng, trong xã hội tỉ lệ người mắc bệnh trĩ rất nhiều. Và thực sự chỉ có những ai bị căn bệnh này mới thấy được sự bất tiện của nó, ảnh hưởng rất nhiều tới sinh hoạt hằng ngày.
Về bệnh trĩ thì có hai loại là trĩ nội và trĩ ngoại, với triệu chứng chính là sa búi trĩ, và có thể có hoặc không có triệu chứng chảy máu kèm theo lúc đi đại tiện. Hôm nay, Bình sẽ hướng dẫn cho mọi người một kỳ huyệt chuyên điều trị bệnh trĩ, nhất là chứng sa trĩ. Huyệt này mình ứng dụng đã nhiều, kể cả trên lâm sàng châm cứu cho bệnh nhân hoặc là hướng dẫn bệnh nhân tự điều trị tại nhà, tỉ lệ gần như tuyệt đối, gần như cứ dùng là thấy ngay hiệu quả.
Vậy huyệt này tên là gì, và ở vị trí nào, tại sao lại có hiệu quả kì diệu như vậy?
Huyệt mình đang nhắc đến ở đây chính là huyệt Đại Lăng, và một huyệt không có tên, mình tự đặt tên cho nó là Địa Thăng. Về vị trí, huyệt Đại Lăng nằm ngay trên lằn nếp cổ tay, khe giữa gân cơ gan tay lớn và bé, tương ứng vị trí H1 trong hình. Còn huyệt Địa Thăng nằm ngay dưới gốc ngón tay cái, tương ứng vị trí H2 trong hình.
Về bản chất của sa trĩ, là do khí cơ hạ hãm không thăng đề được. Khí là dương, tính vốn thăng lên, huyết là âm, tính vốn giáng xuống, đó là đạo lí thường tình của âm dương. Nay có thể do cơ thể dương khí hư, hoặc do thấp tà trở trệ,… khiến cho khí không thăng lên được, hạ hãm xuống dưới mà làm thành sa trĩ. Cho nên để điều trị sa trĩ, pháp trị vẫn cần phải thăng đề khí cơ thăng lên.
Cả hai huyệt Đại Lăng và Địa Thăng này đều có tác dụng đặc biệt trong thăng đề khí cơ vùng hạ tiêu, khiến cho khí được thăng đề mà hết chứng sa. Chính vì nguyên nhân này mà nó có tác dụng đặc hiệu trong điều trị các chứng sa. Đối với những bệnh nhân bị sa trĩ, cách trị rất đơn giản, ngày ấn ba lần hai huyệt này, mỗi huyệt ấn 3 phút, cứ theo nguyên tắc nam trái, nữ phải. Ngoài ra, ấn hai huyệt này thường xuyên còn có tác dụng phụ là điều trị được các bệnh: đau bụng kinh, viêm nhiễm phụ khoa, sa dạ con, lạnh bụng dưới, di mộng tinh,…
Còn nếu trường hợp bệnh nhân lớn tuổi, khí huyết hư suy nhiều, thì lúc này chúng ta có thể kết hợp thêm với cả thuốc để bổ khí, tạo tiền đề cho khí cơ thăng đề. Bài thuốc kinh điển thường dùng chính là Bổ Trung Ích Khí:
Nhân sâm, Bạch truật, Hoàng kỳ, Đương quy, Thăng ma, Sài hồ, Trần bì, Chích thảo (liều lượng và cách gia giảm tuỳ thể trạng, nên tham khảo thêm ý kiến của thầy thuốc).
Trường hợp thuốc nam, có thể dùng bài thuốc đơn giản sau: nửa nắm đậu đen, 1 nắm to ngải cứu, vài lát gừng tươi, sắc đặc lấy nước uống. Sa trĩ vừa và nhẹ uống bài này chắc chắn sẽ kiến hiệu, còn nếu nặng thì cần dùng bài thuốc Bổ Trung Ích Khí ở trên.
Đấy là nói tới những trường hợp bệnh nặng, khí huyết hư nhiều, còn đối với các trường hợp bình thường, dùng hai huyệt trên là dư sức xử lí rồi. Phương huyệt đã được mình áp dụng và hiệu quả đặc biệt trên lâm sàng, không lo tác dụng phụ, mọi người cứ yên tâm áp dụng. Dùng rồi để thấy sự kì diệu của huyệt trên thân thể chúng ta. Chúc mọi người áp dụng thành công.