Nguồn: 李刘坤编著.赵绍琴医案实录.人民军医出版社.北京,2015:39 – 41.
1. Bệnh án 1
Bệnh nhân nữ họ Trương, 56 tuổi.
Khám lần 1: 11 – 3 – 1981. Có THA đã nhiều năm, mỗi ngày đều uống thuốc Tây để hạ áp, huyết áp cao thấp không ổn định, thường xuyên đầu nặng như trì, thậm chí đau căng, ngực bụng trướng tức, đại tiện nát không dễ chịu, mạch nhu hoạt mà sác, chất lưỡi đỏ mà bệu to, rêu lưỡi trắng nhớt mà dầy.
Trị pháp: dùng mùi hương để hóa thấp tà, khổ hàn để táo trung tiêu, tán khí để giảm đầy tức.
Phương: Bội Lan[1] (cho sau) 10g, Hoắc Hương (cho sau) 10g, Bạc Hà (cho sau) 3g, Thảo Đậu Khấu 3g, Bán Hạ 10g, Trần Bì 6g, Mộc Hương 6g, Đại Phúc Bì 10g, phiến Khương Hoàng 6g. Tất cả 6 thang, mỗi ngày 1 thang, sắc lấy nước, mỗi ngày chia 2 lần sáng tối, uống lúc đói.
Khám lần 2: 8 – 4 – 1981. Bệnh THA, mỗi tuần uống thuốc trên 6 thang, nghỉ 1 ngày, uống liền 4 tuần, các triệu chứng nặng đầu, đau đầu, bụng chướng đều thuyên giảm. Bội Lan (thêm sau) 10g, Khổ Đinh Trà[2] 10g, Cúc Hoa 10g, Vãn Tàm Sa[3] 10g, Trúc Nhự 10g, Bán Hạ 10g, Xích Thược 10g, Quyết Minh Tử 10g, Toàn Phúc hoa (bao) 10g. Kê 6 thang, mỗi ngày 1 thang, sắc lấy nước, chia 2 lần sáng tối, uống lúc đói.
Khám lần 3: 15 – 4 – 1981. Lúc tâm phiền nóng giận thì đầu căng mà đau, chất lưỡi đỏ bệu to, rêu trắng nhớt, mạch trầm hoạt. Đàm thấp nội trở, hóa nhiệt sinh phong, điều trị dựa vào lý khí hóa thấp, tiềm dương tức phong. Thiên Ma 10g, Bạch Truật 10g, Thạch Quyết Minh (sắc trước) 12g, Tử Bối Xỉ[4] (sắc trước) 12g, Tử Thạch Anh (sắc trước) 12g, Toàn Phúc Hoa 10g, Cúc Hoa 10g, Bán Hạ 12g, Phục Linh 10g, Ngưu tất 10g. Kê 6 thang, mỗi ngày 1 thang, sắc nước uống, chia 2 lần sáng tối mỗi ngày, uống lúc đói.
Lời bình: THA thuộc về phạm vi chứng hậu “đầu thống”, “huyễn vựng” trong Trung Y, về tạng phủ phần nhiều có quan hệ với tạng Can, Thận, Tỳ Vị. Trung Y cho rằng, tinh thần bị kích thích trong thời gian dài, ăn quá nhiều đồ béo ngọt dầu mỡ, lao nhọc quá độ hoặc người già thận suy, âm dương trong cơ thể mất điều hòa, là nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh này. Trên lâm sàng chủ yếu phân Can hỏa kháng thịnh, âm hương dương kháng, âm dương lưỡng hư, huyết hư ca vượng, đàm thấp thịnh gây tắc trở, thấp nhiệt nội thịnh, khí trệ huyết ứ…phân thành các chứng để điều trị. Bệnh nhân này trong lần khám thứ nhất, đầu nặng như trì, ngực bụng đầy trướng, mạch nhu hoạt mà sác, chất lưỡi đỏ mà bệu to, rêu lưỡi trắng nhớt mà dầy, tiện nát mà không dễ chịu… hiện rõ là thấp nhiệt nội thịnh, làm ứ trệ khí cơ mà gây ra bệnh, cho nên Triệu Lão chủ yếu dùng pháp lí khí trừ thấp để điều trị. Trong phương Bội Lan, Hoắc Hương, Bạc Hà…chú trọng dùng mùi hương để hóa thấp; Thảo Đậu Khấu, Bán Hạ, Trần Bì chủ yếu dùng khổ ôn để táo thấp; Mộc Hương, Đại Phúc Bì, phiến Khương Hoàng, chủ yếu thông sướng khí cơ. Thấp được trừ thì khí thông sướng, tự nhiên sẽ giúp cho bình ổn huyết áp, giải quyết chứng chóng mặt. Đã được điều trị 1 tháng, tuy rằng các triệu chứng đã giảm nhẹ, nhưng mỗi khi tâm phiền nóng giận thì đầu nặng đau đầu lại xuất hiện, Triệu Lão cho rằng những chứng này là do đàm thấp nội trở, hóa nhiệt sinh phong gây ra, cho nên lần khám thứ 3, cùng lúc với lí khí hóa thấp, dùng thêm các thuôc Thạch Quyết Minh, Tử Bội Xỉ, Tử Thạch Anh… chú trọng trấn tiềm dương tức phong. Trước mắt trên lâm sàng, nhiều bác sỹ cho rằng trong số nội thương tạp bệnh, chỉ có huyết hư và âm hư mới có thể dẫn đến Can phong nội động, mà xuất hiện các chứng đầu trướng đầu đau…cho nên khi điều trị đa phần sử dụng các pháp dưỡng huyết tức phong và nhuận âm tức phong. Mà trong trường hợp bệnh nhân này thì có biểu hiện chất lưỡi đỏ bệu to, rêu trắng nhớt mà dầy, lại có triệu chứng đầu căng đau khi tâm phiền nóng nẩy, rõ ràng những triệu chứng này không phải triệu chứng thường gặp do huyết hư và âm hư gây ra, mà là thấp nhiệt nội thịnh, hóa hỏa sinh phong gây ra, cho nên Triệu Lão không sử dụng pháp chữa thông thường, mà dùng đồng thời lí khí hóa thấp và tiềm dương tức phong. Từ đó có thể thấy Trung Y trên lâm sàng chẩn trị bất kỳ bệnh gì, cũng bắt buộc phải căn cứ vào biểu hiện thực tế của mỗi bệnh nhân, cẩn thận phân tích, biện chứng tỉ mỉ, dùng thuốc tùy chứng mà lập pháp, không thể chỉ dựa vào tưởng tượng mà bất cẩn điều trị.
2. Bệnh án 2
Bệnh nhân nữ họ Lương, 53 tuổi.
Khám lần 1: 7 – 11 – 1983. THA đã lâu ngày, người béo thấp thịnh, thường xuyên chóng mặt hoa mắt, tâm phiền, chất lưỡi đỏ mà bệu, rêu trắng nhớt, mạch tượng nhu hoạt.
Trị pháp: thanh hóa đàm nhiệt.
Phương: Tử Tô tử 10g, La Bặc Tử 10g, Toàn Phúc Hoa (bao) 10g, phiến Khương Hoàng 6g, Trúc Nhự 6g, Hoàng Cầm 10g, Tiêu Tam Tiên 10g. Kê 6 thang, mỗi ngày 1 thang, sắc nước, phân 2 lần sáng tối, uống lúc đói.
Khám lần 2: 21 – 11 – 1983. Uống thuốc trên 2 tuần, chóng mặt hoa mắt và tâm phiền có giảm, nhưng mấy ngày gần đây tức ngực, trung quản thường xuyên thấy đầy tức khó chịu, mạch lưỡi như cũ, đàm thấp nội trở, dùng pháp tuyên túc[tuyên phát, túc giáng] hóa đàm. Toàn Phúc Hoa (bao) 10g, phiến Khương Hoàng 6g, Qua Lâu 10g, Giới Bạch[5] 10g, Bán Hạ 10g, Tử Tô tử 10g, La Bặc Tử 10g, Bạch Giới tử 6g, Đông Qua tử[6] 10g. 6 thang, mỗi ngày 1 thang, sắc nước, chia 2 lần sáng tối, uống lúc đói.
[Lời bình]:Trong ví dụ này, bệnh nhân THA, không kể là lần khám 1 hay lần khám 2, chỉ cần từ tượng của mạch lưỡi có thể nhận ra, đều do bên trong có đàm thấp, nhưng lần khám đầu triệu chứng dựa vào chóng mặt hoa mắt và tâm phiền làm chủ, cho nên Triệu lão cho rằng đàm nhiệt hiện rõ, hơn nữa bốc lên trên làm đầu mắt thêm nặng, cho nên điều trị ngoài dùng các thuốc Tử Tô tử, La Bặc Tử, Toàn Phúc Hoa…để lí khí hóa đàm, đặc biệt dùng Trúc Nhự, Hoàng Cầm để thanh hóa thấp nhiệt; Lần khám thứ 2 thấy các chứng ngực bụng chướng đầy làm chủ, chóng mặt hoa mắt cho đến tâm phiền đã giảm, thể hiện rõ hơi nóng của nhiệt bốc lên tuy đã giảm ngược lại nhưng đàm thấp trở khí lại nặng thêm, cho nên khi điều trị cần phải tùy theo chứng mà thay đổi pháp, từ pháp thnah hóa đàm nhiệt đổi thành pháp lí khí hóa đàm, dùng thuốc thì bỏ những vị thuốc trong phương để thanh hóa đàm nhiệt như Trúc Nhự, Hoàng Cầm, gia thêm Bán Hạ, Bạch Giới tử, Đông Qua Tử… nhờ dó tăng cường thêm khả năng hóa đàm khử thấp, đòng thời gia thêm Qua Lâu, Giới Bạch, tăng cường thêm khả năng lí khí thông dương, nhờ đó giải quyết được sự khổ não do ngực bụng đầy tức.
3. Bệnh án 3
Bệnh nhân nữ họ Hàn, 53 tuổi, 17 – 9 – 1980 tới khám. THA, mạch tượng huyệt hoạt mà sác, Can Đảm uất nhiệt thượng nhiễu, thường xuyên chóng mặt hoa mắt, thập chí đau đầu, lưỡi nhỏ đầu lưỡi đỏ.
Trị pháp: thanh đàm nhiệt, kiêm thêm lương huyết, dưỡng âm phần, kèm theo định huyễn vựng.
Phương: Câu Đằng (thêm sau) 10g, Vãn Tàm Sa 10g, Cúc Hoa 10g, sao Địa Du[7] 10g, Long Đởm 10g, sao Hòe Hoa 10g, Bạch Đầu Ông 10g, Hoàng Cầm 10g, Tiêu Tam Tiên 10g. Kê 6 thang, mỗi ngày 1 thang, sắc nước, chia 2 lần sáng tối, uống lúc đói.
Lời bình: Trường hợp bệnh nhân THA này, ngoài chứng thường xuyên thấy chóng mặt hoa mắt, đau đầu, Triệu Lão căn cứ vào mạch tượng huyền hoạt mà sác, biện chứng là Can Đảm đàm thấp nội uất, còn căn cứ vào lưỡi nhỏ đầu lưỡi đỏ, biện rằng âm hư huyết nhiệt, cho nên điều trị dùng các thuốc Câu Đằng, Long Đởm, Hoàng Cầm, Vãn Tàm Sa, Cúc hoa…để thanh hóa đàm nhiệt, bình can tức phong; Lại dùng các thuốc Địa Du sao, Hòe Hoa sao, Bạch Đầu Ông để lương huyết dưỡng âm phần, nhu Can hoãn cấp. Nhờ thế, hai đường ống đều thông, khiến đàm nhiệt bị khử, âm huyết đủ, khí cơ thông sướng, cân mạch nhu hoãn, thì các triệu chứng chóng mặt hoa mắt, đau đầu…tự khắc hết.
Chú thích:
[1] 佩兰: tên khoa học Eupatorium fortunei Turcz., Việt Nam thường gọi là cây Mần Tưới, có tác dụng phát biểu trừ thấp, hòa trung hóa trọc.
[2] 苦丁茶: Lá của cây Ilex latifolia Thunb hay còn gọi là Chè Đắng. Công dụng: sơ phong thanh nhiệt, minh mục sinh tân, chủ phong nhiệt đầu thống, mắt đỏ, ù tai….
[3] 晚蚕沙: tên khác của tằm tơ
[4] 紫贝齿: Vỏ của loài ốcConcha Cypraeae Violacae, Trung Y cho rằng vị mặn tính bình, quy kinh Can; có tác dụng thanh tâm an thần, bình can minh mục. Dùng cho các chứng kinh sợ, tâm phiền mất ngủ, mắt đỏ, huyễn vựng, ban chẩn…. lượng dùng 6 – 12g.
[5] Củ Kiệu
[6] 冬瓜子: hạt của cây họ bầu bí Cucurbitaceae, theo Trung Y vị ngọt tính mát hoặc bình, quy kinh Can. Tác dụng nhuận Phế, hóa Đàm, tiêu thũng, lợi thủy.
[7] 地榆: tên khoa học Sanguisorba officinalis. Khổ, toan, sáp, vi hàn. Vào các kinh can, đại trường. Lương huyết chỉ huyết, giải độc, liễm nhọt.Chủ trị: Đại tiểu tiện ra máu, trĩ ra máu, lỵ ra máu, băng huyết, rong huyết, bỏng nước, bỏng lửa, mụn nhọt thũng độc.
Dịch: Trần Anh